">

Ưu Và Nhược Điểm Của Các Vật Chứa Mẫu Khác Nhau Là Gì?

Đào Tạo & Webinar

Ưu Và Nhược Điểm Của Các Vật Chứa Mẫu Khác Nhau Là Gì?


Ưu và nhược điểm của các vật chứa mẫu khác nhau

  • Cọng trữ mẫu (“truyền thống”)

Cọng trữ mẫu bằng nhựa (đôi khi còn được gọi là “cọng trữ mẫu Pháp” hoặc “paillettes”) được Robert Cassou giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1963 [Cassou, 1964]. Ông đã thành lập công ty Instruments de Médicine Vétérinaire hay IMV có trụ sở tại L’Aigle (Pháp) để thương mại hóa công nghệ này. Cọng trữ mẫu ban đầu được làm từ polyvinyl clorua (PVC) và sau đó là polyethylene terephthalate glycol (PETG). Cọng trữ mẫu PVC đã bị ngừng sản xuất vào năm 1998 vì chúng không thể khử trùng bằng chiếu xạ mà không ảnh hưởng đến tính toàn vẹn cơ học của chúng. Các công ty khác cũng đã sản xuất các sản phẩm tương tự như paillettes của Cassou.

  • Cọng trữ mẫu (“bảo mật cao”)

Cọng trữ mẫu làm từ nhựa ionomeric đặc biệt đã được giới thiệu vào năm 1992 cho các ứng dụng đặc biệt đòi hỏi tiêu chuẩn cao hơn về tính toàn vẹn cơ học và kiểm soát sinh học so với các loại cọng trữ mẫu truyền thống. Những “cọng trữ mẫu bảo mật cao” này được sản xuất và phân phối độc quyền bởi công ty y tế con của IMV có tên là Cryo Bio System (Paris, Pháp) để sử dụng trong hỗ trợ sinh sản ở người và các lĩnh vực ứng dụng khác. Những cọng trữ mẫu CBSTM High Security này thường được gọi đơn giản là “cọng trữ mẫu CBSTM”, nhưng không được nhầm lẫn với những cọng trữ mẫu làm từ PETG khác mà công ty cũng bán.

  • Ống vial đông lạnh:

Ống vial bằng nhựa có nắp vặn hoặc “cryovials” được sử dụng trong ngân hàng lưu trữ tinh trùng, trứng, và phôi người thường là dòng sản phẩm NUNC™ CryoTube® (Nunc A/S, Roskilde, Đan Mạch và Nalge Nunc International, Naperville, IL, Mỹ) được làm từ polypropylene với nắp vặn bằng polypropylen hoặc polyetylen. Các sản phẩm tương tự cũng có sẵn từ các nhà sản xuất khác nhưng đã có báo cáo giai thoại về mức độ nhiễm nội độc tố khác nhau của một số sản phẩm thay thế này.

  • Ống ampoule thủy tinh:

Những ống này đã không được khuyến khích trong nhiều năm vì lý do an toàn do tính dễ vỡ của chúng.

Tại sao nên sử dụng cọng trữ mẫu thay vì cryovial?

Các khía cạnh về lịch sử và sở thích cá nhân sẽ không được xem xét ở đây. Tuy nhiên, các lập luận kỹ thuật trong cuộc tranh luận về cọng trữ mẫu và cryovial liên quan đến các vấn đề về tốc độ làm mát và làm nóng hiệu quả mà các mẫu được lưu trữ trong các vật chứa có bán kính khác nhau gặp phải, độ dễ vỡ cơ học của các vật chứa khác nhau ở nhiệt độ nitơ lỏng (tức là -196°C) , khả năng bịt kín hoặc rò rỉ hiệu quả và kiểm soát sinh học của chúng. Những vấn đề này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau vì chúng đều bị chi phối bởi các đặc tính vật lý của vật chứa mẫu. Mặc dù các nghiên cứu so sánh trực tiếp khả năng sống sót trong điều kiện lạnh của giao tử người và phôi trong các vật chứa mẫu khác nhau chưa được thực hiện, nhưng Whittingham đã báo cáo rằng phôi chuột 8 tế bào đông lạnh trong ống đông lạnh bằng nhựa cho thấy tỷ lệ sống sót trong điều kiện lạnh và tốc độ phát triển phôi nang sau tan băng thấp hơn đáng kể so với cọng trữ phôi. [McLaughlin et al., 1999 hoặc Wood, 1999]. Ngoài ra, gần 40 năm qua, người ta đã biết rằng tinh trùng bò đực đông lạnh trong ống ampoule có khả năng sinh sản thấp hơn so với tinh trùng đông lạnh trong cọng trữ mẫu [Watson, 1979]. Cuối cùng, có bằng chứng gián tiếp cho thấy khả năng sinh sản của tinh trùng người được bảo quản lạnh trong cryovial có thể thấp hơn so với khả năng thu được khi sử dụng cọng trữ mẫu [Mortimer, 2004a].

 

Nguồn:

McLaughlin E, Pacey A, Elliott T (eds) (1999) Safe Cryopreservation of Gametes and Embryos. World Wide Conferences on Reproductive Biology. Ladybrook Publishing, Perth, Australia, pp.105. Mortimer D (2004a) Current and future concepts and practices in human sperm cryobanking. RBM Online, 8,134-151. Watson PF (1979) The preservation of semen in mammals. In: Finn CA (ed) Oxford Reviews of Reproductive Biology. Oxford University Press, Oxford, UK, pp.283-350.

Wood MJ (1999) The problems of storing gametes and embryos. Cryo-Letters, 20: 155-158.